Viêm thượng củng mạc có nhiều dạng, thường gặp ở nữ nhiều hơn nam, nhất là ở độ tuổi từ 40 – 50 tuổi. Đây là bệnh về mắt lành tính nhưng vẫn không thể coi thường
Nội Dung Bài Viết
Viêm thượng củng mạc là gì?
Viêm thượng củng mạc là tình trạng viêm vùng mô giữa phần trắng của mắt (còn gọi là củng mạc) và phần màng bao bọc mắt (còn gọi là kết mạc). Bệnh thường xảy ra ở những người trẻ, thường ở nữ giới, nhiều hơn ở lứa tuổi 40.
Đây là bệnh viêm lành tính đặc trưng bởi phù và thâm nhiễm tế bào của tổ chức thượng củng mạc. Được điều trị hoặc không, bệnh sẽ tự giới hạn sau ít ngày, mặc dù bệnh có thể tái phát trong nhiều năm nhưng không bao giờ gây tổn hại tới mắt. Trong hai phần ba các trường hợp, bệnh được coi là không có căn nguyên.
Những dấu hiệu và triệu chứng viêm thượng củng mạc
Triệu chứng chính của bệnh là mắt đỏ, thường ở một hoặc hai bên. Bệnh có hai loại:
- Đơn giản. Mắt có thể đỏ một phần hoặc toàn phần, kèm theo sự khó chịu cho người bệnh.
- Nốt. Các vết sưng hơi nổi lên bao quanh bởi các mạch máu bị giãn. Tình trạng này thường ở một vùng mắt và có thể gây khó chịu cho người bệnh.
Mặc dù bệnh đơn giản và nốt trông hơi khác nhau, nhưng chúng có chung nhiều triệu chứng, bao gồm:
- Chảy nước mắt
- Nhạy cảm với ánh sáng
- Cảm giác nóng, châm chích hoặc có sạn trong mắt
Những triệu chứng này thường không ảnh hưởng đến tầm nhìn của bạn. Chúng cũng có thể tự hết sau một vài tuần và trở lại vài tháng sau đó.
Nguyên nhân viêm thượng củng mạc
Các chuyên gia không biết chính xác nguyên nhân gây viêm. Trong hầu hết các trường hợp, không có nguyên nhân cụ thể được tìm thấy. Khoảng 1/3 số người mắc bệnh có tình trạng sức khỏe ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể (các bác sĩ gọi đây là rối loạn hệ thống), chẳng hạn như:
- Viêm khớp dạng thấp
- Bệnh viêm ruột
- Lupus
- Bệnh Crohn
- Bệnh gout
- Rosacea (chứng đỏ mặt)
- Bệnh lý mạch máu collagen
Các nguyên nhân khác gồm :
- Các loại thuốc như topiramate và pamidronate
- Chấn thương
Phân loại viêm thượng củng mạc
Bệnh có thể được chia làm hai loại chính là viêm thượng củng mạc đơn thuần và viêm thượng củng mạc nốt. Hai loại này có tính chất giống nhau, chỉ khác về thời điểm xuất hiện triệu chứng, vị trí tổn thương, tiến triển lâm sàng.
Viêm thượng củng mạc đơn thuần
Hay gặp hơn, vùng viêm đỏ, phù và cương tụ tỏa lan sau đó giảm dần trong thời gian từ 5 đến 60 ngày.
Các đợt viêm thường tự giới hạn và hết không cần điều trị. Tái phát trên cùng một mắt hoặc ở mắt khác, tại cùng vị trí hoặc nơi khác có thể xảy ra trong vòng hai tháng. 60% bệnh nhân viêm thượng củng mạc đơn thuần bị tái phát trong vòng 3 đến 6 năm sau khi bị bệnh.
Viêm thượng củng mạc nốt
Đỏ xuất hịên từ từ hơn trong vòng 2-3 ngày, có nốt viêm màu đỏ sẫm kích thước 2 – 6 mm với cương tụ xung quanh nhẹ hơn, kết mạc bên trên có thể di động so với củng mạc. Khi nốt viêm tiến triển mạn tính trở nên phẳng, nhạt màu hơn và mất hẳn sau 4 – 6 tuần. Khi nốt viêm mất đi, vùng củng mạc bên dưới vẫn bình thường.
Nếu như có mỏng củng mạc thì cần phải nghi ngờ có viêm củng mạc. Tái phát có thể xảy ra trên cùng mắt hoặc trên mắt kia, ở cùng vị trí hay ở vị trí khác, đôi khi có thể có vài nốt viêm cùng xảy ra. Cần chẩn đoán phân biệt viêm thượng củng mạc nốt với viêm kết mạc bọng và viêm củng mạc bằng khám trên đèn khe.
Điều trị viêm thượng củng mạc
Bệnh lan tỏa đơn thuần không điều trị cũng sẽ tự khỏi mà không để lại di chứng. Thuốc tra có corticoid không chỉ có hai do tác dụng phụ của chúng mà còn làm quá trình bệnh kéo dài hơn, tỷ lệ tái phát cao hơn sau khi ngừng thuốc và hiệu ứng bùng nổ bệnh làm cho bệnh nặng hơn khi tái phát.
Điều trị bệnh toả lan đơn thuần chỉ cần thuốc bổ trợ như chườm lạnh hoặc nước mắt nhân tạo. Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng cho thấy các thuốc chống viêm không corticoid cũng không có hiệu quả.
Nếu bệnh nhân yêu cầu điều trị vì lý do nghề nghiệp hoặc một số trường hợp viêm nốt thương củng mạc cần điều trị thuốc được dùng sẽ là thuốc chống viêm không corticoid uống toàn thân liên tục trong 6 tháng sau đó giảm dần liều và theo dõi tình trạng tái phát.
Viêm thượng củng mạc phối hợp với các bệnh đặc hiệu cũng cần điều trị bằng thuốc chống viêm không có corticoid toàn thân và điều trị đặc hiệu cho bệnh phối hợp. Cơ địa dị ứng atopy cần kiểm soát môi trường phù hợp và dùng thuốc kháng Histamin toàn thân. Gút cần được điều trị bằng allopurinol.
Bệnh nhân bị chứng cá đỏ cần dùng tetracyclin uống. Plaquenil uống 200mg, 2lần/ngày có hiệu quả trong điều trị các bệnh chứng mắt và da trong lupus ban đỏ rải rác. Bệnh nhân có viêm nốt thượng củng mạc phối hợp với viêm khớp dạng thấp thường đáp ứng với loại thuốc chống viêm không corticoid nào đó và như vậy cần điều trị thư để tìm ra loại phù hợp.
Hiếm khi cần điều trị viêm củng mạc bằng phẫu thuật. Chỉ định duy nhất là các trường hợp viêm củng mạc hoại tử tiến triển tới doạ thủng hoặc thủng nhãn cầu. Điểm mẩu chốt của điều trị phẫu thuật không phải là kỹ thuật phẫu thuật mà là khâu điều trị kiểm soát qúa trình viêm trước phẫu thuật. Vật liệu thay thế củng mạc cũng có thể là củng mạc từ mắt khác, màng xương, cân cơ…
Các thì phẫu thuật gồm tách kết mạc rộng, cắt bỏ các phần hoại tử của giác mạc, củng mạc. Mảnh ghép được cố định bởi 9/0 hoặc 10/0 sau đó được phủ kết mạc lên. Sau mổ cần tránh dùng corticoid tra để tạo điều kiện cho tân mạch và tế bào phát triển vào mảnh ghép.
Viêm thượng củng mạc là bệnh nguy hiểm, vì thế khi có dấu hiệu bệnh phải đến các bệnh viện mắt chuyên khoa để bác sĩ khám và kiểm tra tình trạng bệnh.
Tài liệu tham khảo: